Những Ghi Chép Về Cuộc Đại Suy Thoái

Thân chào các bạn, tôi là Nguoivetulongdat đây,

Một trong những áp lực đối với chính phủ nói chung, và các nhà hoạch định chính sách nói riêng khi vận hành thị trường vốn tư bản đó là phân định rạch ròi giữa: việc gì nên làm và không nên làm khi kinh tế gặp khủng hoảng. Chẳng hạn như việc kiểm soát tiền lương và giá cả trong thời kỳ chính quyền của Nixon hoặc là các sự hạn chế giao dịch quốc tế trong thời kỳ Đại suy thoái của những năm 1930.
Trong thế kỷ 21, hầu như là bất khả thi về mặt chính trị cho bất kỳ chính phủ nào dám để một cuộc suy thoái tự tung tự tác, như những gì mà chính phủ Mỹ đã từng làm trong hơn 150 năm trước khi cuộc cuộc Đại Suy Thoái xuất hiện, khi cả Tổng thống thuộc Đảng Cộng hòa Herbert Hoover và sau đó là Tổng thống Franklin D. Roosevelt thuộc Đảng Dân chủ đều bắt đầu can thiệp vào với một quy mô chưa từng được thấy. Ngày nay, nó được coi là tiền đề rằng chính phủ phải làm điều gì đó khi nền kinh tế suy thoái. Rất hiếm khi có ai so sánh những gì thực sự xảy ra khi họ làm điều gì đó với những gì xảy ra khi họ không làm gì cả.

Những Ghi Chép Về Cuộc Đại Suy Thoái:

Trong khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào tháng 10 năm 1929 và kế tiếp theo là Cuộc Đại Suy Thoái của những năm 1930 đã thường được xem là ví dụ cho sự thất bại của chủ nghĩa tư bản thị trường, nó không hoàn toàn có nghĩa rằng sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã tạo ra sự thất nghiệp hàng loạt không thể tránh khỏi.
Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp tăng lên sau sự sụp đổ mà đã xác lập kỷ lục của thị trường chứng khoán năm 1929, tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh điểm ở mức 9% hai tháng sau sự sụp đổ, nhưng sau đó bắt đầu có xu hướng giảm xuống mức 6,3% vào tháng 6 năm 1930. Sự thất nghiệp không bao giờ đạt đến 10% trong 12 tháng sau sự sụp đổ năm 1929. Tuy nhiên, sau một loạt các can thiệp sâu và chưa từng thấy trước đây của chính phủ, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng vọt lên trên 20% trong 35 tháng liên tục.

Những sự can thiệp này bắt đầu dưới thời Tổng thống Herbert Hoover, cùng với các mức thuế suất hải quan Smoot-Hawley của năm 1930 - mức thuế suất hải quan cao nhất trong vòng hơn một thế kỷ - được thiết kế để giảm sản lượng nhập khẩu, từ đó dự kiến sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa, và cung cấp thêm việc làm cho người lao động Mỹ. Đó là một niềm tin chính đáng. Nhưng sau đó đã có một bảng khuyến nghị công khai, được ký bởi một nghìn nhà kinh tế học tại các trường đại học hàng đầu trên khắp nước Mỹ, cảnh báo chống lại những mức thuế suất này, bảng khuyến nghị ấy nói rằng dự luật Smoot-Hawley sẽ không chỉ thất bại trong việc giảm tỷ lệ thất nghiệp mà còn phản tác dụng.
Tuy nhiên, không có điều nào trong số này ngăn cản Quốc hội Mỹ khỏi việc thông qua đạo luật hay thuyết phục Tổng thống Hoover khỏi việc ký tên ban hành nó vào tháng 6 năm 1930.
Trong vòng năm tháng, tỷ lệ thất nghiệp đã đi ngược lại sự suy giảm của nó và tăng lên hai chữ số lần đầu tiên - thậm chí nó không bao giờ giảm xuống dưới mức đó trong bất kỳ tháng nào suốt toàn bộ phần còn lại của thập kỷ đó.
Kể từ sau sự can thiệp khổng lồ cấp liên bang dưới thời Tổng thống Hoover được xem là chưa từng được thấy trước đây, toàn bộ khoảng thời gian giữa lúc thành lập đất nước Mỹ vào năm 1776 và sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào năm 1929 về cơ bản là một kỷ nguyên “chẳng làm gì cả”(đến chừng mực cần đến sự can thiệp cấp liên bang để chống lại suy thoái). Không có suy thoái nào trong suốt kỷ nguyên dài như thế mà được xem là thảm khốc như Cuộc Đại Suy Thoái của những năm 1930, sau sự can thiệp khổng lồ của chính phủ cả hai chính quyền Hoover và chính quyền Roosevelt sau đó. Tuy nhiên, đã có một suy thoái trong nền kinh tế Mỹ vào năm 1921, mà lúc khởi đầu cho thấy là nghiêm trọng hơn sự kiện suy thoái năm 1929. Tỷ lệ thất nghiệp trong năm đầu tiên của chính quyền Tổng thống Warren G. Harding là 11,7%. Tuy nhiên, Harding đã không có động thái gì, ngoại trừ việc giảm chi tiêu của chính phủ khi doanh thu thuế giảm - điều rất trái ngược với những gì sau này được các nhà kinh tế của học thuyết Keynes ủng hộ. Tỷ lệ thất nghiệp năm tiếp theo giảm xuống còn 6,7%, và năm sau đó nữa là 2,4%.
Ngay cả sau khi nó trở thành tiền đề chính trị, sau Cuộc Đại SuyThoái của những năm 1930, mà dẫn đến việc chính phủ phải can thiệp khi nền kinh tế suy giảm, tiền đề đó đã bị Tổng thống Ronald Reagan lơ đi khi thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1987, phá kỷ lục suy giảm trong một ngày mà đã được thiết lập vào năm 1929. Bất chấp phản ứng giận dữ từ giới truyền thông về hành động của ông ấy, Tổng thống Reagan để nền kinh tế tự hồi phục. Kết quả là nền kinh tế đã tự phục hồi thành công, theo sau đó là thời kì mà Tờ The Economist sau này gọi là 20 năm của “một sự kết hợp tuyệt vời giữa tăng trưởng ổn định và lạm phát
thấp”.
Tất nhiên, đây không phải là kết quả sau những thí nghiệm trên số lượng mẫu cần thiết để đưa ra kết luận mà chỉ là những ghi chép mang tính thời cuộc của lịch sử. Vì vậy bất kỳ kết luận nào đều phải mang tính gợi ý hơn là dứt khoát. Nhưng, ít ra, các ghi chép lịch sử đã đánh vào câu hỏi liệu một sự sụp đổ của thị trường chứng khoán sẽ phải dẫn đến một sự suy thoái nghiêm trọng và lâu dài hay không? Nó cũng khiến giới học thuật thu hút vào câu hỏi về một vấn đề lớn hơn đó là liệu thị trường tư bản tự do hay chính phủ Mỹ đã vấp phải thất bại trong những năm 1930? Liệu chính sách cố gắng “làm điều gì đó” có phải tạo ra một kết quả tốt hơn chính sách “không làm gì” hay không?

NguyenDucNghia